Thursday, May 26, 2011

MÂY XÁM LƯNG TRỜI

 PHI VÂN
MÂY XÁM LƯNG TRỜI
NGUYỄN HỮU THIỆN

Đã hơn 17 năm kể từ ngày người viết rời bỏ căn cứ Không quân Pleiku. Tên tuổi của các cấp chỉ huy, của các chiến hữu, của bạn bè đôi khi cũng không còn được ghi nhớ trọn vẹn, nhưng hình ảnh thân thương của những ngày tháng cũ có lẽ không bao giờ mờ nhạt.
Nhân dịp sắp ra mắt tập san Lý Tưởng Úc Châu, xin được viết bài này như một sự hoài niệm về về chốn xưa, không phải với mục đích tô son điểm phấn, mà chỉ để ghi lại buồn vui của hơn một ngàn ngày sống với những con người bình thường, rất bình thường, nhưng đã đem cuộc sống, đôi khi cả cái chết của mình, để góp phần tạo niềm tự hào cho những người chung sắc áo, màu cờ quân chủng, trong đó có người viết.

Đường vào Không Quân của tôi rất ngắn và bất chợt. Ngắn đến độ vào căn cứ Tân Sơn Nhất mà không phải qua cổng Phi Long. Bất chợt đến mức về trình diện Bộ Tư Lệnh mà chưa có được con Rồng trên túi áo!
Là một sinh viên có đôi chút “tinh thần phản chiến” cho hợp với thời trang, tôi chỉ lên đường nhập ngũ sau lệnh Tổng Động viên năm 1968. Vào những ngày cuối cùng ở đồi Tăng Nhơn Phú tôi hờ hững với các phái đoàn quân binh chủng đến để tuyển chọn người. Tôi chỉ làm đơn tình nguyện về Không Quân sau khi thằng bạn thân nhất quyết định về làm quân cảnh gác cổng phi trường. Không Quân không có gì hấp dẫn đối với tôi nhưng cô em gái xinh đẹp của hắn thì tôi lại không muốn xa.
Hai ngày sau, những chiếc xe GMC màu xanh đưa chúng tôi về Bộ Tư Lệnh qua cổng Phi Hùng! Khi bốc thăm về đơn vị, tôi bốc phải cái thăm duy nhất có chữ Pleuku…
Căn cứ Không quân Pleiku - tức căn cứ 92 – vào thời gian mà ông Phùng Ngọc Ẩn bàn giao lại cho ông Đỗ Trang Phúc là căn cứ nhỏ bé nhất của Không Quân Việt Nam . Quân số lèo tèo hơn 200 chàng “trấn thủ lưu đồn”. Chu vi nếu không kể đài Kiểm Báo trên đồi thì chỉ độ một cây số. Cảnh vật ở đây tiều tụy chẳng thua kém gì con người, khí hậu khắc nghiệt quanh năm, mùa hè bụi đỏ, mùa mưa lầy lội. Cái tên của phi trường: Phi trường Cù Hanh, lại càng làm lòng người thêm ngao ngán, điểm son duy nhất có được là cái tên cổng ra vào của căn cứ: Cổng  Phi Vân! Nhưng cái tên thơ mộng đó cũng không thể biến đổi được cuộc sống buồn tẻ và thiếu thốn ở đây.
Ngày ngày hai buổi leo đồi, chiều chiều đón xe lam ra phố, phố Pleiku “đi dăm phút đã về chốn cũ” chỉ có vài quán cà phê và quán thịt cầy Kim Phượng để lui tới, những người em “má đỏ môi hồng” cũng không được nhiều nhặn là bao! Đã buồn tẻ lại thiếu thốn mọi bề, đến độ hàng Quân Tiếp Vụ cũng phải sang C2 của Lực lượng Đặc Biệt mua ké! Về giải trí thì lâu lâu đánh hơi được bên Pháo Binh hoặc Thiết Giáp có nhảy đầm liền qua vi vút, được cái, cả ông Trung tá Tuấn “râu ghi-đông” lẫn ông Đại tá Dung đều là người rộng lượng nên phe ta cũng được nhờ. May mắn nhất là những tay nào quen được cố vấn Mỹ thì mới có hy vọng vào Officer Club hoặc NCO  Club của họ mà coi vũ sếch-xy!...

Ông chỉ huy trưởng căn cứ, Trung tá Đỗ Trang Phúc lại là người rất “réc-lô”, có người nói tại vì ông xuất thân là một sĩ quan Nhảy Dù! Tôi được ông “thương” vì cả hai cùng chung sở thích: nghe nhạc. Một hôm ông hỏi tôi về dư luận trong binh sĩ, tôi trả lời úp mở thì ông cười nói nửa đùa nửa thật: Moa “réc-lô” thật đấy chứ! Cậu coi Pleiku là “tận cùng của Không Quân”, sĩ quan đa số là dân bất mãn hoặc bị “đì” còn lính tráng toàn là lính “ba gai”, không “hắc ám” thì làm sao mà trị các cậu được!
Trong số những người tôi cho là bị “đì” đó, có ông Trưởng phòng CTCT của tôi Thiếu tá Lê Bá Định! Không hiểu ông có bị “đì” thật hay không nhưng chắc chắn một điều ông bất mãn ra mặt: Ông vốn là dân khu trục mà lại bị đưa xuống đất, coi dăm ba mạng lính văn phòng, không bất mãn sao được! Rồi có lẽ vì sầu đời ông đâm ra lập dị (nên có người kêu ông là Định mát); dù tuổi đời chưa tới “băm lăm” ông bắt đầu chống ba toong và ngậm ống vố, trưa chiều ra sân đứng nhìn đăm đăm về hướng phi đạo hoặc ngước mắt theo dõi những chiếc OV-10 của Mỹ lên xuống…
Vào thời gian 68-69, phi trường Cù Hanh gần như là căn cứ không quân của Mỹ, đơn vị phi hành đồn trú thường xuyên duy nhất của ta là Biệt đội Trực thăng 215 Thần Tượng, có nhiệm vụ đổ Biệt Kích. Trong Không Quân có lẽ chỉ có ba phi đoàn 213, 215 và 219 là nổi nhất trong cái nghề nguy hiểm này. Đổ xuống khó một, bốc về khó mười. An nguy của các chiến sĩ B14, B15 tùy thuộc một phần vào Biệt đội 215. Các ông hoa tiêu và xạ thủ phi hành của 215 trông rất ngầu, áo quần lúc nào cũng đầy bụi đỏ, có người lại đeo dao găm Thượng…,họ là những hình ảnh hiếm hoi đại diện cho những chàng phi công “hào hoa phong nhã” ở phố Pleiku, phố Kontum. Cái phù hiệu phi đoàn của họ cũng khác thường “Con voi làm xiệc” đầu đội nón đứng trên trái banh mà có người gọi đùa là “Con voi…ị”.
Về sau có thêm một biệt đội khu trục A-1 từ Biên Hòa ra…và đó là tất cả “lực lượng tác chiến” của một căn cứ mà ngày xưa đã từng là tiền thân của Không đoàn 62, đã từng có những chỉ huy trưởng nay đã lên tướng, trong đó có cả ông Minh Cồ!

*****

Năm 1970, khi tôi rời đơn vị để đi tu nghiệp mấy tháng trở về thì mọi sự đã thay đổi mau chóng không ngờ: Căn cứ 92 đã trở thành Không đoàn Yểm Cứ Pleiku, và quan trọng hơn, một đơn vị tác chiến vừa được thành lập: Không đoàn 72 Chiến thuật. Ông Bá làm Không đoàn Trưởng, ông Trang coi Liên đoàn Tác chiến với 4 phi đoàn: 530 Khu trục của ông Lê Bá Định, 118 Quan sát của ông Võ Ý, 229 và 235 Trực thăng của các ông Lê Văn Bút và ông Vĩnh Quốc, không khí Pleiku tưng bừng với những buổi lễ Xuất Quân, nhộn nhịp với quân số đã lên đến hàng ngàn…
Tôi bắt đầu làm quen với sinh hoạt của giới phi hành, một phần vì nghề nghiệp của một sĩ quan Báo chí, một phần vì tò mò muốn biết về cái sự bay bổng, đánh đấm của các vị mặc “áo liền quần” này. Từ đó tôi quen biết với những người của 530 như Lê Thanh Hồng Dân, Phạm Văn Thặng, Lê Bình Liêu, Hiệp Vi-xi, Bạch Diễm Sơn, Long, Thanh ‘Ngố”(gọi như thế để phân biệt với ông Thiếu tá Liên đoàn Phó LĐTC Lưu Đức Thanh, hổn danh “Mắt trừu”) và với ông Võ Ý bên 118, với các ông Bông, Quan, Dũng và Tuấn Râu bên 229, 235…thân thiết nhất là với bên 530, một phần vì ông Lê Bá định là xếp cũ, một phần vì Phạm Văn Thặng. Anh có chiều cao và thích thề thao, từ bóng rổ, bóng chuyền cho đến đá banh. Biết anh đã từng là thủ môn cho hội tuyển KQ Biên Hòa, tôi giới thiệu anh bắt gôn cho tiểu khu Pleiku. Khi lên đấu ở Ban Mê Thuột, ai cũng nói Phạm Văn Thặng là người…Thượng vì anh có thể còn đen hơn Đại tá Ya Bah, tỉnh trưởng Pleiku nữa, từ đó Phạm Văn Thặng có biệt hiệu “Thặng Fulro”…. Sau khi phi đoàn đi Thái Lan lấy thêm A1 về tôi thấy mấy chiếc A1-E có hai chổ ngồi liền gạ gẫm anh cho đi theo một chuyến. Anh kiếm cho tôi một cái áo bay số nhỏ nhất, dạy cho cách xử dụng dù thoát hiểm. Đợi đến khi có một phi vụ “liên lạc” tôi lên xin phép ông Lê Bá Định. Sau chuyến đi Nha Trang trở về thấy tôi vẫn còn đủ sức để leo xuống đất, Phạm Văn Thặng lại hù: Nể cậu là dân văn phòng tôi bay êm, chứ gặp Thanh Ngố hay thằng Liêu bay, cậu ói tới mật xanh, mật vàng là cái chắc!...Sau đó mỗi lần thấy chiếc A1 nào tới 2/3 phi đạo đã vụt đâm thẳng lên trời, tôi biết ngay đó là Thanh Ngố. Nói về Thanh thì tôi cũng  không hiểu sao dân khu trục lại đặt cho cái biệt hiệu “Ngố”! Sau khi Lê Thanh Hoàng Dân rời Pleiku thì có lẽ Thanh là người phương phi béo tốt và…đẹp trai nhất phi đoàn! Trước đó hơn một năm, Thanh đã được mặc áo bay, đội helmet để chụp hình bìa cho Tập san Thế Giới của phòng Thông Tin Hoa Kỳ, trông chẳng thua gì tài tử xi-nê-ma! Hơn nữa Thanh bay và đánh rất lỳ, thế mà vẫn bị kêu là Thanh Ngố….Người duy nhất trong 530 mà tôi “được phép” coi ngang hang là Lê Bình Liêu, thứ nhất lúc đó Liêu còn mang lon Trung úy, thứ hai Liêu còn có tài uống rượu như Lệnh Hồ Xung, mà đã là bạn nhậu thì rất dễ thông cảm. Liêu có cái số “nhảy dù”: Hai lần trong một tháng mà vẫn bình yên vô sự!
Từ Phi đoàn 530 Khu Trục tôi mon men qua bên 118 Quan Sát làm quen với ông Võ Ý, ông Thiếu tá Phi đoàn Trưởng này nổi tiếng vì tài…làm thơ! (cái tên Huyền Miêu mà ông đặt cho Phi đoàn đã một phần chứng minh điều đó). Ông sống “độc thân  tại chổ” cho nên cái việc kiếm chổ ăn cơm ngày hai bữa đã trở thành quan trọng, chính vì thế mà khi ông Lê Bá Định đem gia đình ra Pleiku thì tôi và ông Võ Ý thường đến “thăm thầy”, để vừa nói chuyện thơ văn vừa…ăn cơm tối! Ông Định – cũng là một nhà văn Không Quân – có lẽ không bao giờ biết đến cái sự thật phũ phàng đó, mà dù ông có biết ông cũng làm ngơ. Sau đó ông Định giới thiệu chúng tôi với nhà thơ Kim Tuấn, lúc đó đang ẩn dật ở Pleiku cùng với bà vợ trông nom một cửa tiệm bán áo lạnh. Bà vợ của nhà thơ thật hiền lành dễ thương nên tôi và ông Võ Ý lâu lâu cũng được ăn nhờ - ăn nhờ nhưng rất thịnh soạn…
Năm 1971, khi chương trình Việt Nam Hóa bắt đầu thì cũng là lúc tình hình vùng Tam Biên trở nên sôi động, Không quân Hoa Kỳ rút khỏi Pleiku chỉ để lại một ít gun-ship Cobra, ở căn cứ Holloway, ngoài ra những sự yểm trợ khác của họ, nếu có, đều từ căn cứ Chu Lai, từ Đệ Thất Hạm Đội hoặc Đệ Thất Không Lực bên Thái Lan…Sau mấy tháng đầu ổn định nơi ăn chốn ở và tiếp nhận quân số, KĐ72CT đã đụng cuộc thử lửa đầu tiên nơi Căn cứ 5 Hỏa Lực (đồi 1001). Trong trận này, Không lực Hoa Kỳ đã “nhường” hết cho phía Việt Nam, không hiểu vì muốn “thử” khả năng của Không Quân ta hay vì các cấp chỉ huy của họ không muốn đưa đàn em vào chỗ chết mà từ ngày đầu đến ngày cuối không hề thấy bóng dáng một phi cơ nào của họ. Hai người Mỹ duy nhất có mặt trên vùng trời là một cố vấn bên Quân đoàn II, và một ký giả dân sự của Tập san Time (Hoa Kỳ) và ngay trong trận đầu, KĐ72CT đã làm cho bạn bè thán phục và người Mỹ phải kinh ngạc. Phòng không ở đây thì khỏi phải nói, đủ loại, đủ cở, ở 9000 bộ vẫn bị như thường. Trần mây ở xứ “đất trời giao nhau” này thì quanh năm thấp thật là thấp, ở dưới nhìn lên, bên trên nhìn xuống cũng chỉ thấy một màu xám đục, thấy một lỗ hổng là vội nhào xuống ngay. Quân Dù có nhiều thương binh, trực thăng len lỏi thả toán Quân Y xuống, không đủ phương tiện giải phẩu, trục thăng lại phải đáp xuống đưa hết thương binh về Quân Y viện.
Từ lúc đó cho tới khi chiếm lại Căn cứ 5, các chiến sĩ Dù biết mình không bao giờ cô đơn. Trước kia, họ đã từng được sự yểm trợ như vũ bão của Không lực Hoa Kỳ, nhưng lần này sự yểm trợ của Không Quân Việt Nam, ngoài hỏa lực ra nó còn có một cái gì không thể tìm thấy nơi những người đồng minh xa lạ: Đó là cái sống chết bên nhau của những người cùng chung màu da, chung dòng máu, chung bóng cờ. Thành thử khi ông ký giả Mỹ nói các phi công của ta “điên khùng” tôi không có ý kiến, đến khi ông ta gọi họ là “anh hùng” thì tôi khiêm nhượng đáp lại: Các phi công đó của chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ của họ với một tinh thần trách nhiệm và với tất cả khả năng của mình, nếu ông gọi họ là anh hùng thì Không Quân Việt Nam chúng tôi là anh hùng hết sao? Ông ta không đồng ý và viết bài ca tụng trên báo Mỹ, coi đó như một thành công điển hình trong việc Việt Nam Hóa cuộc chiến… Cũng từ đó KĐ72CT gắn liền với những địa danh bất tử: Từ Căn cứ 5, Căn cứ 6, Tân Cảnh, Chu Pao v…v…cho đến bên kia biên giới Kampuchia, Lào…

*****
Cũng vào năm 1971, sự bành trướng mau lẹ của Không lực Việt Nam để thay thế những người bạn Mỹ đã đưa đến cái rắc rối nho nhỏ: Hàng trăm sĩ quan trẻ sau khi tốt nghiệp hoa tiêu bên Mỹ về vẫn còn mang “con cá”(sinh viên sĩ quan). Bộ Tổng Tham Mưu đã lập luận như sau: Các SVSQ đó học quân sự giai đoạn một ở Quang Trung xong là về Không Quân học sinh ngữ rồi qua Mỹ học bay. Như vậy, dù có bằng hoa tiêu họ vẫn chưa trở thành “sĩ quan” vì chưa học qua quân sự giai đoạn hai. Dù không thể bắt các hoa tiêu này về lại Thủ Đức hoặc Nha Trang để học, Bộ Tổng Tham Mưu cũng ra một cái lệnh cứng nhắc là các SVSQ này phải học tại đơn vị, xong xuôi mới được mang lon. Có nghĩa là các hoa tiêu trẻ đó phải học về sinh hoạt lãnh đạo chỉ huy, về…chiến tranh chính trị và bắn súng…Colt45. Riêng tại Pleiku không thôi cũng đã có hơn 50 hoa tiêu, từ nay, sáng thì theo thầy đi đánh giặc hoặc bay tập huấn, chiều về học “chữ” và bắn súng colt.
Lúc đó Phòng Huấn Luyện Pleiku thiếu người, thấy tôi lang thang suốt ngày liền “mượn” về phong cho chức Huấn luyện Viên dạy môn CTCT và Lãnh đạo Chỉ huy, cũng may là không bị dạy cả môn bắn súng! Ngày đầu tiên vào lớp học khi thấy Phương (mà tôi đã đi ké trực thăng vài lần) đứng lên trịnh trọng trình diện lớp học tôi thấy bối rối một cách lạ lùng. Biết những “học viên” của mình mệt vì những giờ bay  lúc ban sáng nhưng tôi cũng không thể để cho họ ngồi ngủ gục hoặc vừa hút thuốc vừa tán dóc. Sau đó tôi nghĩ ra được một giải pháp dung hòa: Tôi vẫn theo đúng chương trình của Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng chỉ sơ lược đại khái trong vòng 15 phút, thời giờ còn lại tôi kể chuyện cho họ nghe. Có lẽ tôi có khiếu về kể chuyện hay sao đó, mà về sau không còn ai ngủ gục hoặc tán dóc nữa, về mục hút thuốc trong lớp thì chỉ còn hai tay ghiền không thể nhịn được: Hùng khu trục và một tay trực thăng trước là dân bên Biệt Kích. Dần dần họ gọi tôi bằng “thầy”, tuyệt nhiên không có ý châm chọc mà đầy tình thân có pha chút vui đùa.
Nhờ vào cái thế “thầy” này mà mỗi khi đi phép hoặc đi công tác tôi khỏi phải xuống Trạm Hàng không Quân sự chờ đợi nữa, buổi sang cứ việc xuống 229 hoặc 235 là thế nào cũng có những phi vụ huấn luyện, liên lạc, hể trông thấy “học trò” của mình ngồi ghế Co-pilot tôi liền tiến lại cười cầu tài là xong ngay. Một lần, cả thảy 4 chiếc UH1 cùng đi về Saigon, có cả ông Bá và ông Bông, tôi ngồi trên tàu của ông Bông. Khi đáp xuống Saigon , đếm đi đếm lại chỉ có 3 chiếc. Ông Bá không nói không rằng, đứng khoanh tay, mặt hầm hầm, nhưng tôi biết lòng ông đang lo cho an nguy của hai hoa tiêu non trẻ. Ông Bông thì vừa vò dầu bứt tai vừa chửi thề: Mẹ, thấy sông Đồng Nai thì phải biết là sắp đáp Saigon rồi chứ. Cái sông Đồng Nai nó chình ình ra đó chứ có nhỏ tí xíu như sông Bé đâu mà không thấy! Gần một tiếng đồng hồ sau, mới thấy những người đi lạc trở về từ căn cứ…Đồng Tâm-Mỹ Tho!
Phải họ còn non trẻ thiếu kinh nghiệm bay bổng nhưng cái can đảm khi đánh giặc họ có thừa. Bởi vì kinh nghiệm thì cần thời gian còn can đảm thì tiềm năng sẵn trong máu…Vào giữa khóa học, tôi bắt đầu kể chuyện Huyền Trân Công Chúa. Dĩ nhiên là tôi phải phịa, và dù lấy lý do “viện dẫn ngoại sử” tôi cũng không thể nào bào chữa cho cái tội “phạm thượng”, thêm mắm thêm muối vào chuyện tình của người xưa, cái người đã đem lại hai Châu Ô, Lý cho giang sơn nước Việt. Tới đoạn Công chúa và Chế Mân đi hưởng tuần trăng mật 6 tháng trong rừng trên lưng voi thì lớp học của tôi vắng thêm hai người: Họ hy sinh trên chiến trường Tam Biên!…Vào những ngày cuối cùng của khóa học, tôi thêu dệt sẵn một kết cuộc ly kỳ cho chuyện tình Huyền Trân - Trần Khắc Chung, coi đó như một món quà chia tay với các học viên, nhất là cho anh chàng ngồi bàn đầu có khuôn mặt giống như con gái, thường hối thúc tôi kể chuyện. Tôi sẽ để cho Huyền Trân Công Chúa phải vào chùa tu theo lệnh của Vua cha, nhưng sau đó kiếm sĩ Trần Khắc Chung cũng gác kiếm vào chùa làm…sư bác giống như Bát Giới Hòa Thượng trong chuyện Tiếu ngạo Giang hồ vậy! Hai ngày trước ngày mãn khóa, tôi đang vui vẻ bước vào lớp học thì bỗng ngạc nhiên vì cái sự im lặng bất bình thường. Rồi nhìn nét mặt rầu rầu của mọi người, tôi đã đoán được chuyện gì đã xảy ra sang nay: Lại một người đã ra đi! Định thần lại, nhìn xuống cái bàn đầu, tôi thấy chàng trẻ tuổi giống như con gái đó đã vắng bóng: Người hoa tiêu đó, có lẽ là người cuối cùng hy sinh khi còn mang trên người đôi cánh bạc với cái “alpha”,  vì hai ngày nữa, tất cả sẽ được chính thức gắn lon Thiếu úy! Và cái đoạn kết ly kỳ của chuyện tình Công Chúa Huyền Trân đã không bao giờ được kể, vì người thích nghe nhất đã không còn sống để mà nghe… Cuối cùng, dù sao đi nữa thì cũng nhờ làm HLV cho một trong những khóa học khác thường và vô ích nhất trong lịch sử quân đội đó mà tôi trở thành thân thiết hơn với những người của 530, 118, 229, 235…
Thấm thoát một năm trôi qua, Phi đoàn 530 ăn thôi nôi bằng một “Đêm Khu Trục” đáng ghi nhớ. Từ ông Kỳ, ông Minh Cồ cho đến các ông Sư đoàn Trưởng, các ông Chỉ huy Trưởng không thiếu mặt ai, cả đến ông Từ Văn Bê cũng phải tạm rời cái “chùa” KTTV ở Biên Hòa để lên chung vui. Không phải tất cả các vị tướng tá đều xuất thân là dân khu trục, nhưng hình như Pleiku luôn được sự ưu ái đặc biệt, giống như một đứa con xa nhà, gửi thân nơi đèo heo hút gió. Còn nhớ mỗi lần về Bộ Tư Lệnh, hể gặp ông Phùng Ngọc Ẩn thì bị chận lại ngay: Sao em, Pleiku hồi này có vui không? Thậm chí đến ông Nguyễn Hồng Tuyền ở tận Sóc Trăng, lâu lâu có UH1 ở Pleiku về chơi cũng không quên tặng cho một tàu khô và mắm, gọi là làm quà cho người nơi xứ Thượng!!!...
Chính vì thế mà trong Đêm Khu Trục, vì sự ưu ái sẵn có chứ không phải thưởng tài ca hát của Bạch Diễm Sơn 530 mà quý vị đó đã xuất quỹ đơn vị để cho Pleiku một cách rộng rải: Tối thiểu là 50 xín, bảnh nhất là ông Phan Phụng Tiên của SĐ5KQ 150 ngàn!...
Sau Đêm Khu Trục, ông Kỳ ra Pleiku thường hơn, có khi ở lại cả tuần, có lẽ ông muốn tránh cái không khí “tiền bầu cử” ở Saigon chăng? Cái ngày KĐ72CT được Đại tá Dung (Thiết Giáp) tặng cho hai con bò đem ra nướng thì ông Kỳ cũng có mặt. Đang ăn thì có một F100 của Mỹ đánh ở Hạ Lào xin đáp khẩn cấp. Xe cứu hỏa chưa kịp chạy ra phi đạo thì đã thấy chiếc F100 đâm bổ xuống với vận tốc khá mau và gảy bánh mũi. Trước khi phi cơ đâm vào ụ chắn cuối phi đạo và nổ tung, phi công đã kịp bấm nút phóng ghế ra, bị phóng về phía trước, dù chưa kịp mở thì người đã chạm đất. Mọi người chạy tới bàng hoàng nhìn xác người phi công Mỹ: Anh ta chết trong tư thế quỳ, mặt úp xuống đất, hai tay co lại chống xuống mặt phi đạo như một phản ứng chống đỡ cuối cùng…Trên trời chiếc F100 còn lại nhào xuống, lượn quanh ba vòng trước khi vĩnh biệt bạn bay về Thái Lan!...Trước cảnh đó, ai cũng như muốn khóc, ông Kỳ nhìn mọi người: Đấy, cuộc đời phi công nó như thế đấy, các cậu còn ham nữa không?...
Đối với những chiến sĩ của các quân, binh chủng khác, một khi xa nhà ra trận tuyến, những người thân phải chịu đựng những ngày tháng dài trong lo âu, hồi hộp đợi chờ, đề rồi cuối cùng một ngày nào đó có thể nhận được tin dữ: Người ra đi sẽ không bao giờ trở lại. Với Không Quân, cái sự chờ đợi đó nó không đến trong một tháng, một tuần, một ngày mà chỉ trong một buổi, đôi khi chỉ trong một giờ ngắn ngủi. Cuộc sống sang đi, chiều về, càng có vẻ an nhàn, điều độ, thì cái đau đớn vì một sự mất mát bất ngờ nó càng mang nặng chất bi thương. Và người yêu của Tuấn Râu,  hơn ai hết, đã thấm thía được điều đó, khi nghe tin UH1 của Tuấn nổ tung trên vùng trời Kontum, trước đó một giờ, họ còn ngồi với nhau trong góc quán cà phê quen thuộc…
Vào đầu năm 1972, có một sĩ quan khác ra thay thế tôi trong chức vụ Sĩ quan Báo Chí, tôi đâm ra rảnh rỗi, suốt ngày la cà ở câu lạc bộ sĩ quan do Mỹ bàn giao lại. Lúc này Phạm Văn Thặng đã lên Thiếu tá và rất ít khi đi đánh bi-da độ nữa mà chỉ ngồi uống cà phê, nghe nhạc hoặc tán dóc. Chúng tôi thích ngồi ở cái bàn gần cửa hông, để được nhìn xuống phi đạo, đổ dài về hướng căn cứ trực thăng Holloway của Hoa Kỳ…Hôm đó, tôi đang tán dóc với mấy cô chính huấn của Tiểu đoàn 20 CTCT thì Phạm Văn Thặng vào, chưa uống hết ly cà phê thì có điện thoại của Hiệp “vi xi” gọi về bay thế cho một hoa tiêu vắng mặt vì công chuyện gia đình. Không cự nự một tiếng, Phạm Văn Thặng vội vã trở về phi đoàn. Khi mấy cô chính huấn đã về, tôi đang chơi bi-da thì nghe tiếng xôn xao ngoài cửa, tiến ra, tôi thấy mọi người đang bu quanh một sĩ quan vừa từ phòng Hành Quân Chiến Cuộc lên, anh kể từng câu đứt quãng: Tàu của ổng bị phòng không ở Kontum…Ông Hiệp bay đàng sau thấy cháy dữ dội…nói ổng nhảy dù…Ổng nói: Tàu còn đầy bom, để nó đâm xuống nhà dân đâu có được. Ổng bay ra ngoài vòng đai tiểu khu rồi làm “cash” xuống ruộng, đụng mô đất, tàu nổ luôn!...
Nghe nói bay với ông Hiệp, tôi biết ngay người vừa rớt là Phạm Văn Thặng. Tôi lặng người đi trong giây lát trước khi chạy xuống Phi đoàn 530 để được nghe chính miệng Hiệp “vi xi” kể về chuyến bay định mệnh của Thặng “fulro”…Cuộc đời và cái chết của anh đã được các nhà văn, nhà báo viết lại như một bản huyền sử ca, cố Trung tá Phạm Văn Thặng được tôn vinh làm Anh Hùng của Quân Đội..v.v…Riêng trong tôi, hình ảnh của Phạm Văn Thặng vẫn là một Phạm Văn Thặng bình thường, rất bình thường. Như cái lần đi công tác gặp anh đứng xếp hàng chờ ở Trạm Hàng không Quân Sự, tôi hỏi: Tàu VIP, tàu liên lạc thiếu gì, sao ông không đi? Phạm Văn Thặng đáp: Cậu tưởng lên Thiếu tá là làm cha thiên hạ sao, với lại moa đi phép chứ có phải đi công tác như cậu đâu mà đòi ưu tiên!...Có lẽ cái bông mai bạc không làm cho anh thay đổi, ra khỏi phi đoàn cũng đùa phá như trẻ con…Gọi Phạm Văn Thặng là anh hùng, tôi tự thấy cái yêu mến nể phục trong tôi nó bị ngượng ngập, tôi chỉ muốn nhớ đến anh như một con người đã sống xứng đáng và nay đáng cho mọi người thương tiếc; thế thôi!...

*****
Tôi rời Pleiku vào mùa hè đỏ lửa, vài tuần lễ trước khi căn cứ không quân này trở thành một đại đơn vị: Sư đoàn 6 Không Quân.
Về Biên Hòa, tôi được Trung (530 cũ) kể lại cái chết của Thanh Ngố ở sông Bé: Nó bị phòng không cũng chỉ vì cái tội lỳ, điếc không sợ súng!...Khoảng nữa năm sau, gặp lại Phương, (trưởng lớp học quân sự ở Pleiku ngày xưa) tôi hỏi xem ai còn ai mất. Ngoài việc Hùng 530 hy sinh ở Chu Pao, Phương cò kể tôi nghe vụ ông Bút và anh em bên trực thăng cố đáp xuống cứu Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 22 Bộ Binh, trong cái đêm Tân Cảnh bị địch âm thầm tràn ngập. Xuống tới nơi, bị Việt cộng gài bẩy bắn cháy một tàu, ông Bút bị chúng nắm được cổ áo nhưng vùng thoát, chui khỏi hàng rào và leo lên được chiếc UH1 còn lại!...
Cuối năm 1973, nhân dịp có phái đoàn Bộ Tư Lệnh và một số Sư đoàn Trưởng, Chỉ huy Trưởng đi thanh tra các đơn vị, tôi xin tháp tùng ông Từ Văn Bê, ra đến Pleiku tôi thấy sinh hoạt trong căn cứ có phần nhộn nhịp hơn ngày trước, các cấp chỉ huy cũ cũng đã đổi đi gần hết, còn lại chỉ có ông Lê Văn Bút nay là Trung tá Không đoàn Trưởng KĐ72CT - vị KĐT trẻ nhất trong Không Quân cũng như ngày trước, ông ta từng là Phi đoàn Trưởng trẻ nhất vậy. Bạn bè bên trực thăng còn nhiều, nhưng bên khu trục thì hầu hết vắng bóng sau khi các phi cơ A1 bị đình động, nhường bầu trời cao nguyên cho các phản lực A37 vẫy vùng, gầm thét…
Trước khi ra Phù Cát, tôi trở lại câu lạc bộ, nay đã được đặt tên lại là Hội quán Phạm Văn Thặng. Tôi tìm lại cái bàn ngày xưa thường ngồi với Thặng nhưng đã có người chiếm: Họ là những hoa tiêu trẻ, cười nói ồn ào, vô tư như không cần biết đến ngày mai, cái ngày mà họ thành danh như Lê Văn Bút hay thành người hung thiên cổ như một Thặng “Fulro”…
Phi cơ lấy cao độ, tôi nhìn lại phi trường Cù Hanh, liếc qua bên trái là Biển Hồ Pleiku, nơi chiếc A1 mà Lê Bình Liêu bay test vẫn còn nằm dưới đáy, quay qua bên phải, tôi thấy núi Hàm Rồng: Ngọn núi mà dân phi hành gọi bằng một cái tên khác, rất tục nhưng rất tượng hình, vì nó giống “cái đó”, giống một cách lạ kỳ!...
Mùa Xuân năm 1975, cùng với Quân đoàn II, SĐ6KQ được lệnh di tản chiến thuật về căn cứ KQ Phan Rang. Mặc dù chỉ có 48 giờ để chuẩn bị, SĐ6KQ cũng đã di tản rất “đẹp”. Nghe kể lại rằng, trước khi rời phi trường, anh em bên Phân đoàn Tháo Gỡ Đạn Dược và Liên đoàn Phòng Thủ còn đủ thời giờ gài chất nổ vào những phi cơ không đem đi được và những cơ sở quan trọng, có lẽ lúc đó họ đã hiểu được rằng: Dù mang tiếng là “di tản chiến thuật” nhưng chắc chắn sẽ không có một ngày trở lại! Họ đã nghĩ đúng, cổng Phi Vân với mây xám lưng trời, sau gần 15 năm xa cách, những người con yêu giờ đây vẫn còn hoài công ngóng đợi…

Nguyễn Hữu Thiện
Đặc san Lý Tưởng Úc châu




Tuesday, May 10, 2011

XIN KHÓC GIÙM CHO QUÊ HƯƠNG



thơ mường giang
gửi uyên nguyên, tâm vô lệ, phạm đình thừa, cát biển,
trầm kha, dung, phạm hòa, tiếp sĩ trường, cao hoài sơn..

1 - XIN KHÓC GIÙM CHO QUÊ HƯƠNG

xin khóc giùm cho quê hương yêu dấu
bao chục năm vẫn tang tóc, nhục hèn
dân đói lả vì cơm gạo bon chen
đảng béo phệ trên ngai vàng ngập xác

tháng tư đen, nước non sầu tan nát
tháng tư buồn, máu lệ ngập trời cao
ta ở đây mà hồn vướng nơi nào?
khi đối diện với chia ly não nuột

sông núi vẫn còn, quê hương đã mất
sống lang thang lê lết khắp chợ người
hồn nào khác, chiếc lá úa sắp rơi
giữa cay đắng một đời không trọn vẹn

kể sao hết, hận thù cùng đau đớn
thương ngàn muôn, mẹ hiu hắt đợi chờ
con cứ hẹn, rồi ngoảnh mặt làm ngơ
mẹ mòn mỏi, nay thành người thiên cổ

buồn đã khắc trên từng con phố nhỏ
đường đổi tên, nhà cũng vắng người thương
bạn bè xưa giờ lạc khắp mười phương
trường lớp cũ, cũng dãi dầu hoang phế

quên sao được tháng tư đen máu lệ
người hại người bằng độc lập hòa bình
người giết người với súng đạn đồng minh
mồ vô chủ, biển xác người trôi giạt

tháng tư đen, quê hương mình tan nát
triệu mẹ già, khóc biệt đám con thơ
tuổi hoa niên, căng nhựa sống đợi chờ
đã héo úa vì thân trai thời loạn

tháng tư đen, triệu người sôi lửa hận
kỷ niệm buồn như thác lũ réo mời
ta đứng khóc nhìn biển rộng mù khơi
tìm nhân ảnh trên tình người sắp cạn


2 - LẠI ÐỢI BẠN NƠI QUÁN BÊN ÐƯỜNG

Vào quán bên đường, đêm quốc hận
Ta ngồi chờ bạn, uống rượu suông
Chao ơi, trăng đã treo đầu núi
Mà thấy ai đâu ở cuối đường?

Ðã hẹn cớ sao còn tới trễ?
Kiếp người, tính được mấy lần vui?
Huống chi nhân thế như phù ảo
Mới đó, rồi tin đất đã vùi

Rượu nhắp đêm nay, nghe rất lạ
Ơ hờ, có máu lẫn trong men
Cho nên chỉ uống toàn cay đắng
Làm mắt cũng buồn, đẫm lệ hoen

Mê tĩnh, cuồng mơ, ta lại nhớ
Năm nao, ngất ngưởng quán biên cương
Bồ đào chưa cạn ly tương biệt
Ngựa đã hý vang, khắp nẻo đường

Ðêm nay quán vắng, người lai vãng
Quanh quẩn mình ta ngất ngưởng say
Bạn chết từ khi Phan Thiết mất
Thì sao có thể đến nơi này?

Quán vắng, đèn khuya ta lại uống
Một ly khóc hận chuyện nước non
Một ly thương bạn không còn nữa
Một cốc tủi thân sống nhục hèn

Văng vẳng trời cao chim đã hót
Muộn phiền vây kín suốt trang thơ
Soi gương chợt thấy mình thêm lạ
Qua một đêm chờ đợi ngẩn ngơ..


3 - NGỒI TRÊN MỘ HOANG NHỚ BẠN

ngồi trên mộ, khóc người nơi cõi chết
lại khóc mình số kiếp quá bi thương
giận sao xưa không gục giữa sa trường
như đồng đội được người người tưởng tiếc

giờ sống đây mà hồn lìa khỏi xác
thành cây khô hiu hắt đứng bên đường
xin xỏ đời chút cơm áo, tơ vương
rồi vuốt mặt mừng sống lâu chịu nhục

thương bè bạn vì người, vì non nước
chết oan khiên giữa lứa tuổi mộng mơ
đứa mất tích thì hồn phách vật vờ
thằng tử trận cũng mồ xiêu, lạc nấm

tháng tư đen máu xương càng thêm đẩm
giặc tràn về, mở tù ngục, pháp trường
gây kinh hoàng, gieo tang tóc thê lương
khiến trời đất cũng bôn đào, lánh nạn

lính ở lại, lãnh đòn thù, quốc hận
cùng dân đen chết rục rã, xương khô
xưa lót đường để ai dựng cơ đồ
nay thân xác bón rừng xanh thêm lá

nhưng quá khứ rồi cũng chìm tất cả
nay ai còn nhắc nhở để làm chi
bạn rồi sao? lính cũng chẳng là gì
chỉ nắm đất bên đường đầy cỏ dại
mai, nếu có cuộc đổi đời trở lại
ta xin dành phần, đăng báo, phân ưu
đồng đội xưa đã chết trận, chết tù
thảm thiết quá, những hồn ma đói lạnh


4- THÌ THÔI HÃY KHÓC ÐỂ QUÊN ÐỜI

tội nghiệp đời trai chưa thỏa chí,
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co, giẫm lối gầy

chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
đêm hát vang lừng nơi chiến địa
mộng hoàng hôn khép giữa hư vô

dấu cũ còn nguyên ai xóa được ?
biên cương Lào Việt bóng quân đi
khèn thay tiếng trống, bào làm quách
những nấm mộ hoang, khóc biệt ly

mai về nẻo ấy chiều sương khói
ta biết tìm đâu bước bạn hiền
vượt thác băng rừng qua cầu khỉ
Chiến trường héo hắt bóng trăng đơn

Mai về quê mẹ qua biên giới
Thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung
Rừng núi vẫn xanh màu khát vọng
Chỉ ta hờn tủi, kiếp tha hương

Phận lính đời trai chưa thỏa mộng
Thì thôi hãy hát để quên đời
Xưa nay tráng sĩ, hề cô độc
Thế thái trời ơi, nước mắt rơi


5 - EM CÓ HẸN

Em có hẹn, tháng tư mùa phượng vỹ
Sẽ trở về Phan Thiết để thăm quê
Ðường Nha Trang đâu cách trở sơn khê?
Sao cứ vẫn vô tình, dành lỗi hẹn

Nhưng rồi em, vẫn không bao giờ đến
Vì tháng tư máu lửa ngập đất trời
Thảm thương cho số phận của con người
Ðang hạnh phúc bỗng chìm trong địa ngục

Cũng từ đó, ta thành tên ngoại cuộc
Ðứng bên lề, khóc thế sự đổi thay
Nhưng trót hẹn, nên hết tháng qua ngày
Vẫn tìm em, khắp nẻo đời khổ lụy

Em có hẹn tháng tư mùa phượng vỹ
Về quê xưa sống lại những ngày vui
Thuở áo trắng, bước chân sáo yêu đời
Thời hoa mộng, mắt ô môi ướp mật

Ta sẽ rong khắp phố phường Phan Thiết
Qua lối đường tràn ngập bóng trăng mơ
Ðến sông Mường, ngóng dòng nước lửng lờ
Nghe cô lái nghêu ngao niềm tâm sự

Rồi ta lại quay về trường lớp cũ
Nhặt dư hương mà nhắc chuyện trăm năm
Tìm kỷ niệm trong cõi mộng thì thầm
Của hai trái tim yêu đang mở hội

Nhưng mà em, đã chẳng bao giờ tới
Tháng tư đen, rồi những tháng tư buồn
Ðể gốc phượng già đứng khóc cô đơn
Trơ mắt nhìn, chỉ người dưng, kẽ lạ

tháng tư năm đó, mình đôi ngã
em ở Nha Trang, giặc chiếm rồi
ta kẹt thành Phan, ngong ngóng đợi
từng đoàn di tản, mịt mù khơi

nhưng khói lửa tàn, mình cũng vẫn
mỗi người một ngã, cách mười phương
ta theo định mệnh, nai xiềng xích
em nổi trôi trong cảnh đoạn trường
nước mất, nhà tan, đời nghiệt ngã
ai còn ai mất, lạc hà phương ?
chỉ còn mê muội tìm trong gió
hình bóng em qua vạn nẻo đường

gặp bước khốn cùng, đành trốn chạy
thầm mong phút cuối được tin nhau
cho dù đã trở thành thiên cổ
hay vẫn còn đang lạc chốn nào

mấy chục năm xa, trường lớp cũ
cũng là phút cuối biệt tri âm
cố nhân giờ chỉ là hư ảnh
theo bước ta qua nẻo thăng trầm

tháng tư năm đó mình còn hẹn
sẽ hội ngộ nhau để gởi trao
tất cả tâm tình thời mộng mị
vui buồn, kỷ niệm lẫn thương đau

nhưng em sẽ chẳng bao giờ tới
binh lửa, gia phong hoặc đổi dời ?
buổi trước em từng quen lỗi hẹn
thì nay lần nữa, cũng thế thôi .


6 - ÐỌC THƯ BẠN TỪ VÙNG KINH TẾ MỚI

thư bạn gởi từ vùng kinh tế mới
đến tay ta hơn sáu chục ngày dài
giọng đùa cợt như thuở chớm đôi mươi
nhưng bút mực làm sao che nước mắt

bạn có hỏi, khi nào về Phan Thiết?
để sớt chia tủi cực với quê nhà
cùng tìm kiếm đồng đội khắp gần xa
mồ xiêu lạc, không ai còn nhắc tới

bạn kể lại những ngày xưa thân ái
dưới mái trường thơ đẹp suốt bao năm
nay hoang sơ qua thế sự thăng trầm
theo cơn lốc chìm trong sầu ly tán

bạn cho biết giờ chỉ còn dĩờ vãng
càng hải kinh nhìn đợt sóng bể dâu
thêm ngao ngán ngóng những phố, những lầu
khi tất cả toàn người dưng, kẻ lạ

thơ bạn viết đầy thảm thê, buồn bả
thêm hắt hiu khi kể chuyện đổi dời
xưa Phan Thiết luôn rộn rã tiếng cười
nay người chỉ giết người bằng men rượu


bạn bè cũ sống bên lề quá khứ
vứt công danh vào vết bánh luân hồi
đứa rẫy bái nơi rừng núi xa xôi
thằng đen đủi theo nghề ghe, lưới cá

nhưng cũng có số mắn may khá giả
tiền đô la từ hải ngoại mang về
lâu lâu mở tiệc, thịt rượu hả hê
cười tiếu ngạo mà lệ pha đầy cốc

đọc thơ bạn giữa đất trời cô độc
đêm nay buồn chợt nhớ tới quê hương
thảm thương ơi bao bè bạn đoạn trường
giờ vẫn trả nợ trai, thời tao loạn..


7 - SAY TỈNH LẠI MƠ CHUYỆN TRỞ VỀ

anh hùng buổi trước hờn vong quốc
mài kiếm dưới trăng để đợi thờợi
ta kiếp lính quèn, đời loạn lạc
co ro ngồi khóc cuộc chia phôi

núi vẫn hờn căm, sông lặng lẽ
ngẩn ngơ thương thuở sống hào hùng
ta cũng một thời làm lính trận
nên cùng sông núi chuốc đau thương

đêm nay ngất ngưởng bên bàn rượu
say tỉnh lại mơ chuyện vá trời
tới lúc vầng trăng hoen ủ rũ
mộng tàn theo rượu đắng khô môi

tưởng tiếc bỗng dưng làm đứt ruột
chao ơi đời đã hết rồi sao ?
bạn bè trăm đứa nay còn một
ta biết tìm đâu để nhớ nhau ?

còn đây là những cung thương cũ
của phím đàn xưa đã loạn dây
âm hưởng cũng chìm trong quá khứ
đời buồn thảm quá, làm sao vui

xưa ta với bạn thường nâng chén,
mỗi lúc dừng quân ở ven đường
nay sồng cô đơn nơi góc biển
một mình với bóng uống trăng suông

đêm nay đứng ngóng về bên đó
ngơ ngẩn chờ ai thêm xót thương
biển vẫn vô tình cơn sóng vổ
bỏ ta ngồi đợi, suốt canh trường

Xóm Cồn H5 Uy Di
Quốc Hận 2011
Mường Giang